www.nguoiduatin.vn
Cà phê quay đầu tăng
Cụ thể, giá cà phê mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 120.100 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đăk Nông 120.200 đồng/kg; giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 120.000 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 119.900 đồng/kg.
Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 120.000 đồng/kg; tại tỉnh Đăk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 120.200 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 119.000 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Đăk Lắk; ở huyện Cư M’gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 120.000 đồng/kg, còn tại huyện Ea H’leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 119.900 đồng/kg.
Theo Tổng cục Hải quan, lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 5 chỉ đạt 79.358 tấn, giảm mạnh 47,8% so với tháng trước và 47% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 5 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê đạt 817.154 tấn với trị giá thu về hơn 2,8 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2023 giảm 5,8% về lượng nhưng tăng tới 40,9% về trị giá nhờ giá tăng cao.
Các thị trường xuất khẩu cà phê hàng đầu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024 bao gồm EU đạt 328.130 tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 40,2% thị phần; Nhật Bản đạt 56.931 tấn, tăng 16,9%; Mỹ đạt 50.033 tấn, giảm 22,4%… Trong khi đó, xuất khẩu sang các thị trường ở châu Á như Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia lại tăng rất mạnh.
Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng trở lại. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 7/2024 được ghi nhận tại mức 4.158 USD/tấn, tăng 1,04%; Giá cà phê Arabica giao tháng 7/2024 tại New York ở mức 226,8 UScent/pound sau khi tăng 1,18%.
Vào thứ Tư, giá cà phê Arabica có lúc đã giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tuần sau khi Cecafe báo cáo vào cuối ngày thứ Ba rằng, xuất khẩu cà phê nhân trong tháng 5 của Brazil đã tăng 90% so với cùng kỳ lên 4 triệu bao. Giá cà phê cũng đang bị áp lực bởi vụ thu hoạch cà phê nhanh hơn của Brazil, điều này đã thúc đẩy nguồn cung cà phê.
Safras & Mercado ước tính gần 37% vụ cà phê mới của Brazil đã được thu hoạch. Vụ thu hoạch năm nay có tốc độ nhanh hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, được báo cáo là khoảng 34%. Dựa trên dự báo của họ về sản lượng vụ mùa mới là 69,50 triệu bao, báo cáo cho thấy rằng đến nay, khoảng 25,72 triệu bao cà phê vụ mới đã được thu hoạch, trong đó, khoảng 11,83 triệu bao là cà phê Conillon Robusta.
Hồ tiêu duy trì ổn định
Khảo sát mới nhất cho thấy, giá tiêu duy trì ổn định. Tại tỉnh Đăk Lắk, giá tiêu được thu mua với mức 160.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg. Tại tỉnh Đăk Nông, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 161.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Gia Lai, giá tiêu hôm nay ở mức 158.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg. Trong khi đó tại Đồng Nai, giá tiêu hôm nay ở mức 158.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giá tiêu hôm nay ở mức 159.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg.Còn tại tỉnh Bình Phước giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 158.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg.
Giá tiêu đầu giờ sáng nay tăng trung bình 3.000 đồng/kg so với cùng thời điểm hôm qua.Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 6.418 USD/tấn; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 7.900 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 8.377 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn. Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 7.800 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 8.000 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 12.000 USD/tấn. IPC giữ nguyên giá tiêu các nước so với cuối tuần trước.
Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế thông tin thêm, thị trường tuần trước cho thấy phản ứng khá tích cực, khi không có quốc gia sản xuất nào ghi nhận giảm.
Cụ thể, tại Nam Á, giá tiêu giao dịch trong nước và quốc tế của Ấn Độ tiếp tục tăng từ tháng trước. Còn giá tiêu nội địa Sri Lanka tiếp tục tăng trong 5 tuần qua.
Ở Đông Nam Á, giá tiêu nội địa và xuất khẩu của Indonesia ghi nhận tăng từ tuần trước do hàng tồn còn ít trên thị trường.
Chỉ có giá tiêu nội địa Malaysia ghi nhận tăng trong tuần này. Trong khi, giá tiêu xuất khẩu nước này tiếp tục ổn định và không thay đổi.
Giá tiêu giao dịch nội địa và quốc tế của Việt Nam tiếp tục tăng kể từ đầu tháng 5. Sự gia tăng này do hàng tồn còn ít tại địa phương cũng như lượng thu hoạch giảm tại Việt Nam, theo Namagro.
Trong khi đó, giá tiêu đen Brazil và tiêu trắng Trung Quốc tiếp tục ghi nhận tăng từ tuần trước. Tăng giá hồ tiêu tại Brazil được cho là do vụ mất mùa tại Espirito Santos, Brazil. Còn giá tiêu đen Campuchia tiếp tục ổn định và không thay đổi.
Các quốc gia như Brazil và Indonesia được dự báo có vụ mùa kém năng suất, sắp tới bắt đầu vào khoảng tháng 8. Điều này giúp duy trì lợi thế của hồ tiêu Việt Nam trên thị trường quốc tế, bởi nguồn cung đang phụ thuộc vào các công ty xuất khẩu trong nước.
Giá lúa gạo đi ngang, giao dịch chậm
Giá gạo giảm, giao dịch chậm; lúa khô còn lại ít
Giá lúa gạo hôm nay 18/6 tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long giá gạo nguyên liệu giảm nhẹ 100 đồng/kg, giao dịch lai rai. Thị trường lúa, giao dịch chậm, lúa khô còn lại ít, khó gom được hàng.
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, các giống lúa hôm nay không điều chỉnh. Trong đó, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 7.400 – 7.500 đồng/kg; Nếp Long An (khô) ở mức 9.500 – 9.700 đồng/kg; Lúa Đài thơm 8 giá 7.600 – 7.800 đồng/kg; Lúa OM 5451 giá ổn định 7.600 – 7.700 đồng/kg; Lúa OM 18 có giá 7.600 – 7.800 đồng/kg; OM 380 dao động từ 7.500 – 7.600 đồng/kg. Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 – 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 7.600 – 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg; Nếp đùm 3 tháng (khô) 8.8.000 – 9.200 đồng/kg.
Ghi nhận tại các kho gạo ở Kiên Giang, nguồn về chưa nhiều, giao dịch lai rai, ít gạo đẹp. Các địa phương như Đồng Tháp, An Giang hôm nay nguồn gạo về chưa nhiều, giao dịch chậm, gạo đa dạng về chất lượng, giá ổn định.
Tại thị trường gạo, giá gạo điều chỉnh giảm nhẹ 100 đồng với gạo thành phẩm. Cụ thể, giá gạo thành phẩm IR 504 dao động quanh mốc 12.650 – 12.750 đồng/kg, giảm nhẹ 100 đồng; gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu duy trì ở mức 10.600 – 10.800 đồng/kg.
Trên thị trường gạo, tại các chợ lẻ giá ổn định. Hiện gạo Jasmine 18.000 – 20.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen 30.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 – 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 19.000 – 20.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 18.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.000 – 19.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 18.500 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Mặc dù giá lúa khá ổn định song ở Kiên Giang lúa chín nhiều, nhiều thương lái tiếp trả giá thấp; hay ở Cần Thơ ít người mua.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có điều chỉnh giảm từ 5 – 8 USD/tấn. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 570 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 25% tấm ở mức 549 USD/tấn giảm 3 USD; gạo 100% tấm giảm USD định ở mức 475 USD/tấn.
Giá cao su tiếp tục giảm
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 1,58% xuống mức 336,2 Yên/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 18/6 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 2,76% ở mức 14.770 Nhân dân tệ/tấn.
Trong tháng 5/2024, giá cao su tại các sàn giao dịch chủ chốt tại châu Á tăng so với tháng trước do lo ngại nguồn cung thắt chặt. Việc khai thác cây cao su ở Thái Lan và Trung Quốc đã bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết không thuận lợi. Tuy nhiên, sản lượng đã bắt đầu tăng tại các vùng sản xuất cao su ở phía Đông Bắc Thái Lan và Việt Nam.
Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE) Nhật Bản giá cao su biến động mạnh, sau khi giảm xuống mức thấp nhất tháng vào ngày 10/5/2024 (xuống mức 308,8 Yên/kg), giá tăng mạnh trở lại.
KHÁNH LINH (t/h)
Nguồn bài viết:
https://www.nguoiduatin.vn/gia-nong-san-186-gia-ca-phe-tang-tro-lai-cao-su-giam-manh-a668883.html